Giáp Văn Dương
Nếu hỏi yếu kém nội tại nào là
đáng lo ngại nhất đối với nền kinh tế Việt Nam, thì năng suất lao động quá thấp
có lẽ sẽ là câu trả lời có được nhiều đồng thuận nhất.
Theo số liệu của
UNDIO (2000) thì năng suất lao động trung bình của Việt Nam thấp hơn của Mỹ đến
40 lần. Hiểu đơn giản, một lao động người Mỹ làm việc trong một giờ tạo ra nhiều
của cải hơn một lao động người Việt Nam 40 lần. Với thời gian lao động như
nhau, sức khỏe cơ bắp không hơn kém nhau nhiều, thì phần chênh lệch quá lớn đó
đến từ đâu? Chỉ có thể trả lời: đến từ sự chênh lệch về trình độ công nghệ và
quản lý.
Để thu hẹp sự chênh lệch này, và
qua đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, không còn cách nào khác là phải
thúc đẩy đổi mới và sáng tạo công nghệ, cải thiện quy trình quản lý.
Nhưng ai sẽ làm công việc này? Rõ ràng, đó chỉ có thể là doanh nghiệp, vì chỉ có doanh nghiệp mới đủ sâu sát để hiểu rõ mình cần đổi mới công nghệ nào, cải thiện quy trình quản lý nào. Sự hỗ trợ của nhà nước, nếu có, và xét ở mức cao nhất, thì cũng chỉ có thể dừng ở mức định hướng, hoàn thiện khung pháp lý và gỡ bỏ những cản trở về thủ tục hành chính cho sự hoạt động của doanh nghiệp.
Nhưng ai sẽ làm công việc này? Rõ ràng, đó chỉ có thể là doanh nghiệp, vì chỉ có doanh nghiệp mới đủ sâu sát để hiểu rõ mình cần đổi mới công nghệ nào, cải thiện quy trình quản lý nào. Sự hỗ trợ của nhà nước, nếu có, và xét ở mức cao nhất, thì cũng chỉ có thể dừng ở mức định hướng, hoàn thiện khung pháp lý và gỡ bỏ những cản trở về thủ tục hành chính cho sự hoạt động của doanh nghiệp.
Sự phát triển tốt trên nền tảng
công nghệ cạnh tranh, hiện đại, như Nanogen, Gốm sứ Minh Long, Rạng Đông... là
những ví dụ khá điển hình cho một sự thật: muốn phát triển bền vững và tạo ra sức
mạnh thực sự, doanh nghiệp cần ý thức được vai trò sống còn của việc nâng cao
trình độ công nghệ và quản lý, qua đó nâng cao năng suất và sức cạnh tranh trên
thị trường, cả trong nước lẫn quốc tế. Điều này không chỉ đúng ở quy mô doanh
nghiệp, mà còn có thể mở rộng ra cho cả nền kinh tế. Thực tế cho thấy, sau cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008, nhiều nước đã nghiêm túc xem lại định hướng
phát triển của mình theo hướng khôi phục trở lại sức mạnh sản xuất, thay vì chạy
theo các ngành thương mại, tài chính, dịch vụ… Ngay cả một nước nhỏ như
Singapore, dù có tỷ lệ các ngành dịch vụ lên đến hơn 70% GDP, cũng quyết tâm giữ
một số ngành sản xuất chủ lực như điện tử, cơ khí chính xác, máy công cụ, dược
phẩm… để tạo nền và giữ nhịp cho sự phát triển bền vững, nhất là khi kinh tế thế
giới đang có nhiều biến động lớn.
Với Việt Nam, do không ý thức hết tầm quan trọng của sản xuất, nên nhiều tập đoàn lớn chỉ nhắm đến việc đầu cơ trước mắt, điển hình là đầu cơ bất động sản, mua qua bán lại, mà không phát triển những sản phẩm cốt lõi, không đầu tư cho công nghệ để kiến tạo sự phát triển bền vững lâu dài, nên khi nền kinh tế gặp khó khăn thì sụp đổ hàng loạt mà không có cách nào gượng đỡ được. Vì vậy, việc doanh nghiệp đẩy mạnh đổi mới sáng tạo để đưa nền kinh tế đi theo hướng phát triển bền vững lại càng trở nên quan trọng.
Với Việt Nam, do không ý thức hết tầm quan trọng của sản xuất, nên nhiều tập đoàn lớn chỉ nhắm đến việc đầu cơ trước mắt, điển hình là đầu cơ bất động sản, mua qua bán lại, mà không phát triển những sản phẩm cốt lõi, không đầu tư cho công nghệ để kiến tạo sự phát triển bền vững lâu dài, nên khi nền kinh tế gặp khó khăn thì sụp đổ hàng loạt mà không có cách nào gượng đỡ được. Vì vậy, việc doanh nghiệp đẩy mạnh đổi mới sáng tạo để đưa nền kinh tế đi theo hướng phát triển bền vững lại càng trở nên quan trọng.
Điều này chỉ có thể đuợc thực hiện
khi các doanh nghiệp tự hướng đến mô hình doanh nghiệp đổi mới - sáng tạo để
nâng cao năng suất lao động, và qua đó là nâng cao sức cạnh tranh, nhằm trước hết
là tự cứu mình, sau đó là cứu cả nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng.
Nói cách khác, doanh nghiệp đổi mới – sáng tạo chính là lối thoát cho nền kinh tế đang kém hiệu năng hiện thời.